Hồi Ức Trong Túi Gấm - Chương 1
1.
Năm Thánh Nguyên thứ 10, trời đại hạn, đất đỏ nứt nẻ ngàn dặm.
Chiến hỏa lại nổi, trai tráng đều bị trưng binh.
Sau khi lương thực cạn sạch, trong thôn vỏ cây cũng bị bóc trụi, thây khô nằm đầy đường, chẳng còn một bóng người sống.
Vài ngày đầu đứt lương, nhà ta còn dùng nước cầm hơi.
Cho đến khi đáy sông nứt nẻ như lưng rùa, không thể đào ra nổi một giọt nước nào nữa.
Muội muội đó/i đến mức khóc thét, về sau đến cả sức khóc cũng không còn, chỉ biết rúc vào góc tường thút thít khe khẽ.
Đệ đệ còn bọc trong tã, mẹ bất lực, đành cắn ngón tay nhỏ m//á.u nhét vào miệng nó cho bú.
Chúng ta đếm từng ngón tay mà sống qua ngày, qua được hôm nay, lại chẳng biết lấy gì để nhìn thấy ngày mai.
Khi trời nhập nhoạng, nhà họ Hách sai bà tử đến mang theo một bao lúa mạch đen, muốn kết thân cùng nhà ta.
Nhi tử nhà họ là Hách Viễn, bị trưng binh, trên cấp cho ba bao lương khô.
Họ không dám để lộ, chỉ đợi đêm khuya gió lớn mới cõng bao lương lén gõ cửa sổ nhà ta.
Ba ngày nữa Hách Viễn sẽ lên đường ra trận, nhà họ Hách sốt ruột muốn tìm cho hắn một người vợ.
Lỡ như sau này thi thể không còn, cũng có người đốt giấy, lo phần mộ.
Nếu trời thương, trước khi đi còn để lại được một đứa nhỏ thì càng tốt.
Dẫu chẳng được như ý, cũng xem như tìm một người hầu hạ cha mẹ già, giữ cho ngôi nhà khỏi đổ nát.
Phụ thân Hách Viễn trọng bệnh nằm liệ/t giường, mẫu thân hắn nghe tin con sắ/p đi, khóc đến thần hồn điên đảo.
Bà gắng gượng chút sức tàn, ngẩng đầu đầy mong mỏi nhìn phụ thân ta chờ một lời định đoạt.
Phụ thân ta trừng trừng nhìn bao lúa mạch đen, cổ họng khẽ động, dường như qua lớp vải bao đã thấy được chiếc bánh hấp nóng hổi vừa nhấc từ nồi ra.
Trong đôi mắt vẩn đục của người đầy tơ m/á/u, mang theo vẻ dò hỏi mà nhìn ta:
“Nhã nhi, con có nguyện ý không?”
Ta làm sao nói không nguyện được?
Cả thôn đã cạn sạch lương ăn, bản năng sinh tồn khiến người người liều mạng.
Có nhà bỏ cả nhà cửa, dắt díu nhau ra quan đạo đi xin ăn.
Có người vì nhường phần ăn, đem nữ nhi sơ sinh nhét vào bếp th/i/êu s ố/ng.
Cũng có lão nhân già cả, tr/e.o c .ổ trên xà nhà trong gian nhà trống.
Thật ra, được gả vào nhà họ Hách đã là lựa chọn tốt nhất rồi.
Tâm đã hạ quyết, ta ngẩng đầu, trên mặt là một mảnh kiên quyết:
“Cha mẹ, con nguyện ý.”
Mẫu thân ta nghe xong như bị rút sạch g/ân cốt, khóc òa lên:
“Khổ cho con ta quá! Làm sao mẹ nỡ mở mắt nhìn con gả đi để th/ủ ti/ết suốt đời…”
Phụ thân ta ngoảnh mặt đi, lưng càng còng xuống, như thể bao lúa mạch kia nặng ngàn cân, đè g.ã/y cả xương sống của ông.
“T/hủ ti/ết cũng còn hơn cả nhà ch .t đói!”
Ta đỡ lấy tay bà tử nhà họ Hách:
“Thím à, con đi theo người ngay bây giờ.”
Ta mà còn ở nhà thêm một khắc, cha mẹ càng thêm một khắc chịu khổ như d/a.o cứa tim.
Ta rời đi, bọn họ mới có thể yên tâm ăn bữa no đầu tiên không mang tội với con gái.
2
Hách Viễn đứng ngoài cửa ngóng trông, thấy ta cùng bà mẫu đến, lập tức vội vã chạy vào trong nhà, lấy ra hai chiếc bánh màn thầu đen to bằng nắm tay nhét vào tay ta.
Mềm mềm, ấm nóng, hương thơm xộc thẳng vào mũi.
Ta cũng chẳng buồn giữ gìn gì dáng vẻ, đến nơi này vốn là vì một miếng ăn.
Còn chưa kịp bước vào cửa, ta đã nhét vội chiếc bánh vào miệng, ba ngụm hai nhát đã nuốt trọn.
Hắn lại mang ra một bát nước nóng, ta ừng ực uống xuống, lúc này mới thấy đầu óc tỉnh táo đôi chút.
Ba ngày kế tiếp, hắn điên cuồng phát tiết lên người ta, tựa như muốn trút sạch nỗi buồn vì sắp ly biệt, cùng nỗi sợ mịt mù nơi tiền tuyến.
Ta ngoan ngoãn chịu đựng, ăn của người ta rồi, tự nhiên phải chấp nhận như thế.
Đến lúc chia tay, ta tiễn hắn đến ngọn đồi, nơi ấy lác đác vài hộ gia đình, đều là đến tiễn nam đinh bị trưng binh trong nhà.
Không có rượu tiễn hành, không có bánh đưa chân, chỉ có bầu không khí tĩnh lặng như chết, tuyệt vọng đến nghẹt thở.
Chẳng rõ là ai bật khóc trước, rồi âm thanh nức nở lan ra như làn sóng bi ai.
Thím Trương níu chặt lấy áo con trai, khóc nghẹn không ra tiếng.
Bên cạnh là một đứa nhỏ gầy như mầm giá, ôm chân cha không buông, ngửa khuôn mặt hốc hác lên nhìn, ánh mắt trống rỗng.
Ta lấy từ trong áo lót ra một kết bình an, nhét vào tay Hách Viễn.
“Phải sống mà trở về.”
Dưới sườn đồi, tiếng chiêng thúc quân chát chúa vang lên.
Hắn nhìn ta chằm chằm rất lâu, tựa như muốn khắc ghi khuôn mặt ta vào tận tâm khảm.
Rồi không quay đầu lại, cùng đám đồng hương dấn bước xuống núi, như thể đang đi vào chốn tử địa.
Ba ngày trước hắn là tân lang của ta, là người ta từng mơ được cùng sống đến răng long đầu bạc.
Nhưng lúc này, hắn chỉ là một binh sĩ tầm thường giữa chiến trường, bình thường đến nỗi chẳng có lấy một cỗ xe, một con ngựa, mấy nghìn dặm đường đành phải tự mình cuốc bộ.
Trong thời thế người không bằng cỏ, mạng sống rẻ mạt như lớp bụi dưới chân.
Gió vẫn gào rú, cuốn theo bụi đất vàng, cùng những tiếng khóc nghẹn ngào vọng lại từ trên núi.
Ta quay về nhà, bà mẫu không còn khóc nữa, chỉ ngơ ngác nhìn về phía đồi xa.
Cha chồng ho sặc sụa trên giường, một ngụm đờm mắc nơi ngực khiến ông suýt chút nữa tắt thở.
Ta vội vàng chạy đến đỡ ông dậy, vỗ lưng cho khạc ra đờm, rồi cầm thau đến hứng lấy.
Sau đó xuống hầm lấy một thùng nước, rắc vào ít bột lúa đen, quấy thành một nồi cháo loãng, mang đến trước mặt bà mẫu.
“Nương, ăn hai miếng đi, cũng phải giữ lấy chút sức mà đợi đại lang về.”
Ánh mắt bà nhìn lướt qua khuôn mặt ta, chậm rãi dừng lại nơi bụng, đột nhiên trong đôi mắt đục ngầu ấy lóe lên tia sáng:
“Trước khi đi, Viễn nhi đã để lại huyết mạch! Nương đem hết hy vọng đặt vào con rồi!”
Bà vịn tay ta uống mấy ngụm cháo loãng, cố sống cố chết nhường phần còn lại cho ta, ánh mắt tha thiết đến mức khiến người rùng mình.
Mỗi sáng vừa thức dậy, câu đầu tiên bà mẫu hỏi luôn là:
“Hôm nay có gì khác lạ không? Có buồn nôn không?”
Hơn nửa tháng sau, bà phát hiện áo quần ta dính máu.
Hy vọng của bà hoàn toàn sụp đổ.
“Đồ vô dụng!”
Bà tát mạnh lên lưng ta.
“Ngươi đúng là phế vật! Ăn không ngồi rồi! Viễn nhi nhà ta… Viễn nhi số khổ mà!”
Đánh ta xong, bà lại quỳ bên giường cha chồng, hai tay tự tát vào mặt mình, khóc đến lạc giọng:
“Ta có lỗi với tổ tiên! Có lỗi với dòng họ!”
Ta bị tiếng khóc dội đến nổ cả đầu, chỉ biết dựa vào chân tường, nghĩ phải tiết kiệm sức mới được.
Vậy mà bà lại xông đến túm lấy ta:
“Chồng ngươi đang liều mình chém giết nơi sa trường, còn ngươi ở nhà lại nằm như xác chết, ngươi có phải mong hắn chết luôn rồi không?!”
Nhưng sau khi trút hết giận, náo loạn một trận, bà lại mang bát cơm đến trước mặt ta, như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra:
“Ăn đi, ăn đi, Nhà nhi, ăn no rồi chúng ta cùng đợi Viễn nhi về.”
Sự tuyệt vọng lặp đi lặp lại như dây leo, cuốn chặt lấy ta đến nghẹt thở.
3
Cha mẹ gửi thư đến, nói rằng nhờ có bao lúa mạch đen ấy cứu trợ, họ được một bữa no, phụ thân ta cũng có sức bước ra ngoài, thử xem bên ngoài còn thứ gì có thể ăn, nếu không, cũng dò dẫm tìm xem chỗ mương suối nào còn đọng lại chút nước, đào được một thùng mang về cũng quý.
Cắn răng chịu đựng mấy tháng, rốt cuộc cũng đợi được tiếp tế từ triều đình.
Người trên phái xuống, phát cho mỗi nhà một bao gạo lứt, một bao lúa mạch đen, còn mở đập dẫn nước từ thượng nguồn đổ về, dòng nước đục ngầu từ từ lấp đầy sông cạn.
Trong đám đông cuối cùng cũng vang lên vài tiếng hò reo mừng rỡ.
Đến khi chiếc lá cuối cùng của mùa thu rơi rụng, có lẽ ông trời cuối cùng cũng mở mắt, mới đầu đông đã đổ xuống một trận tuyết lớn.
Ta đưa tay ra, đón lấy những bông tuyết lả tả bay.
“Chắc sang năm sẽ là một năm được mùa rồi.”
Không rõ bên kia núi có tuyết không, người phương xa à, chàng vẫn ổn chứ?
Đông qua xuân tới, năm lại nối năm.
Ta chợt nhận ra, hai ba năm trôi qua, tựa như chỉ chợp mắt mấy lần đã hết.
Chúng ta cứ thế sống mòn trong năm tháng, chấp nhận, bình lặng mà chịu đựng.
Cha chồng được ta chăm sóc chu đáo, tuy không thể xuống giường, nhưng tinh thần vẫn ổn, mỗi ngày ba bữa cơm được bưng tới tận nơi, ăn xong lại giúp ông rửa ráy sạch sẽ, chăn gối thay thường xuyên, không vương chút mùi lạ nào.
Bà mẫu thì chưa từng giặt lấy một cái áo, nấu một nồi cơm.
Áo bông mùa đông, áo mỏng mùa hè, đều là ta đo theo vóc dáng bà mà cắt may chuẩn xác từng tấc, thức đêm dưới ánh đèn để may cho xong.
Ta khôi phục lại vài mảnh ruộng trong nhà, trồng lúa với mạch, lại trồng thêm hai gốc lê trong sân, gió xuân thổi qua, khắp cây hoa nở rộ.
Dưới tán cây là hai con mèo trắng to, vô sỉ chẳng biết ngượng, vừa lim dim ngủ trưa dậy, lắc người rũ hết cánh hoa trên mình, lại hùng hổ đi bắt chuột.
Căn nhà này cuối cùng cũng có chút dáng dấp của một tổ ấm.
Tầm chiều tối, ta đẩy hai bao lúa mạch đen ra cối xay bột.
Giữa đường đi ngang qua một đoạn dốc cao, thường ngày mỗi lần qua đây, ta đều phải dồn hết sức mới trèo lên nổi.
Có lẽ vì hôm đó ta đã gánh năm thùng nước, giặt hai thúng quần áo, đến gần đỉnh dốc thì tay chân rã rời, lực cạn kiệt.
Ngay lúc cả người cả xe như sắp ngã nhào xuống, sau lưng bỗng có một bàn tay rắn rỏi đẩy mạnh một cái, ta mượn lực xông lên, một hơi vượt dốc.
Đứng vững trên đỉnh dốc, lòng còn chưa hết bàng hoàng, ta ngẩng đầu nhìn người giúp mình.
Thì ra là một nam nhân xa lạ.
Hắn không chờ ta kịp nói lời cảm tạ, chỉ để lại một bóng lưng vội vã.
Mà lòng ta thì vẫn cứ bận bịu mãi với sự kinh ngạc, hóa ra trong thôn này vẫn còn một người trẻ tuổi sống sót.
Lần nữa gặp lại hắn là trong tang lễ của Trương đại ca.
Nghe người khác gọi tên hắn — Thẩm Diệp Hoa.
Hắn bận rộn giữa dòng người, viết câu đối phúng viếng, đọc bài điếu văn.
Madara Info
Madara stands as a beacon for those desiring to craft a captivating online comic and manga reading platform on WordPress
For custom work request, please send email to wpstylish(at)gmail(dot)com