Nên Thương Ngày Xuân Đến Muộn - Chương 3
Thấy ta ôm một lúc bốn, năm xấp lụa, hắn liền giơ tay đỡ lấy, nhưng nét mặt lại thoáng vẻ… chua chua:
“Đại lang thật có phúc khí quá. Mà ta nhớ Bành Thành hình như chưa từng nghe có ai bị lạnh đến chết, sao lại phải mua nhiều áo thế?”
Ta đang cầm một xấp lụa màu nguyệt bạch lên so thử, Tạ Chỉ liền cau mày, hậm hực quay mặt sang một bên:
“Đại lang mặc màu huyền trông rất hợp. Nàng không cần dùng ta làm thước đo để so với huynh ấy.”
Ta bật cười, nheo mắt nhìn hắn:
“Không phải đâu, xấp lụa này… là ta định tặng cho ngươi đấy.”
“Chỉ là nghĩ lại, Quảng Lăng năm nay hình như cũng chưa đến mức rét buốt, hay là thôi vậy…”
Tạ Chỉ sững người, rồi như phát hoảng, lập tức ôm chặt lấy xấp lụa, giọng lấp ló ý làm nũng:
“Năm nay rét lắm đó, tiểu nhân e là… thợ thủ công nghèo khó như ta sẽ bị đông cứng mất!”
Thấy ta cười, hắn cũng không nhịn được mà bật cười theo, nụ cười pha chút thẹn thùng, đáng yêu lạ thường.
Lúc ấy trời dần sập tối, mưa bụi lất phất.
Ánh đèn lồng đỏ nơi tửu lâu phản chiếu vào màn sương, ánh lên sắc ấm như rượu hâm nóng trong lòng.
Khi nồi lẩu nghi ngút được bưng lên, tiểu nhị còn mang theo một vò rượu nóng và đĩa ngỗng muối mặn — mà ta không hề gọi món đó.
“Là vị cô nương kia bảo mang đến cho hai vị.”
Ta quay đầu nhìn.
Một cô nương cười rạng rỡ, thong dong bước tới, nắm tay ta thân mật như người quen cũ, ánh mắt lại lướt qua Tạ Chỉ, ẩn ý không giấu:
“Chị dâu không nhớ ra ta sao? Hôm trước ta còn bị chị từ chối ngoài cổng cơ mà.”
Thì ra là Kỷ Du — người mà Tạ Thanh Từ từng nhắc tới, cô thanh mai nhỏ mà hắn một mực thương mến.
Ta vội vàng đứng dậy xin lỗi, nhưng nàng chẳng để bụng, chỉ liếc Tạ Chỉ bằng ánh nhìn sâu xa:
“Chị dâu phải cẩn thận một chút, có vài người mang họ Tạ, chẳng học được gì cho ra hồn, chỉ giỏi lừa người đấy.”
Nghe Kỷ Du nói vậy, đám thiếu niên cùng bàn với nàng cũng hùa theo cười cợt.
Lời lẽ cứ như gươm đao giấu trong tiếng cười, từng câu từng chữ đều nhắm về phía Tạ Chỉ, chẳng chút nể nang.
Ta không nhịn được nữa, sắc mặt lập tức lạnh xuống, buông đũa, giọng nghiêm trang:
“Cô nói ai ta không biết, nhưng Tạ Chỉ — tuyệt đối không phải người như vậy.”
“Chàng là người thật thà, lại có tài có nết. Mong cô nương đừng buông lời xúc phạm.”
Lời ta dứt, bàn bên lập tức im lặng mấy nhịp.
Rồi từng tiếng xì xào nhỏ to truyền tới:
“Lạ nhỉ? Chẳng phải ai cũng bảo cô nương nhà họ Thẩm là người mềm mỏng, dễ bảo lắm sao?”
“Chuyện quái gì thế này? Hắn chẳng phải ghét nhất kiểu nữ nhân có cá tính, dễ nổi giận sao? Thế mà giờ vẫn chưa bỏ đi à?”
Tạ Chỉ khẽ kéo tay áo ta, đưa đôi đũa gắp một miếng ngỗng muối đặt vào chén của ta, giọng êm như gió lướt qua mặt nước:
“Đừng giận nữa, món ngỗng muối và rượu ở đây là tinh túy của đất Quảng Lăng đó. Nếm thử đi.”
“Ai thèm ăn ngỗng muối của nàng ta chứ!”
Ta tức đến nỗi trừng mắt với cả Tạ Chỉ:
“Không được ăn! Ngươi cũng không được ăn!”
Tạ Chỉ ngẩn người, rồi bật cười, ngoan ngoãn đặt đũa xuống:
“Được rồi, không ăn nữa. Ta cùng nàng giận dỗi.”
Xe ngựa lắc lư trong màn mưa lất phất, những hạt mưa lạnh lẽo theo gió tạt vào bên khung cửa.
Tạ Chỉ còn đang bận dỗ ta:
“Giận quá hại thân, nếu vì một kẻ như ta mà nàng cáu đến sinh bệnh… chẳng đáng đâu.”
Hắn cười, nửa đùa nửa thật, nhưng giọng lại có chút nghèn nghẹn.
“Lạ thật đấy. Tạ Nhị lang bỏ rơi nàng ngay đêm tân hôn, nàng không giận.
Lúc bị bọn gian thương lừa lọc, nàng cũng không tức.
Sao hôm nay… chỉ vì ta, mà lại nổi giận đến thế?”
Ta càng nghĩ càng thấy xót:
“Chính vì ngươi tốt, nên ta không thể để bọn họ nói về ngươi như thế được.”
“Là ta sai, lẽ ra lần đầu gặp ngươi, ta phải nhìn ra mới đúng.
Không có áo ấm để mặc, không có chỗ để về, lại bị người ta chèn ép, rốt cuộc mới đến nông nỗi không kiếm nổi miếng cơm manh áo…”
“Tạ Chỉ, ngần ấy năm qua, một mình ngươi… có phải đã sống rất khổ không?”
Tạ Chỉ không nói gì.
Chỉ lặng lẽ nhìn ta thật lâu — lâu đến mức, mưa làm ướt cả bờ vai, hắn cũng chẳng hay.
Ta khẽ nghiêng người lại gần, định nhìn kỹ sắc mặt hắn có gì khác thường, thì hắn vội quay mặt đi, hai gò má đã đỏ ửng như bị luộc chín.
Hắn lúng túng nắm chặt lấy vạt áo:
“…Đừng nhìn ta nữa.”
“Ta… ta hình như bị bệnh rồi.”
“Mà bệnh nặng thật ấy… nguy mất rồi.”
Quả nhiên là bệnh không nhẹ.
Khoác trên người chiếc áo choàng dày cộm, tay ôm bát nước gừng nóng hổi, vậy mà Tạ Chỉ vẫn hắt xì liên tục không dứt.
Phòng ở của hắn nằm nơi khu phụ, chỉ có tấm chăn mỏng như giấy.
Ta đành mang một tấm áo hồ cừu thật dày tới, đắp cho hắn, sợ hắn bệnh càng thêm nặng.
Ngoài hiên, tiếng mưa rơi lách tách, mùa đông lạnh như ngấm vào tận xương cốt.
Giữa sân còn có cây ngọc lan mới trồng mấy hôm trước, trụi lủi chưa trổ nụ — chờ sang xuân mới mong có cảnh.
Trong phòng, chiếc lò nhỏ đang sưởi một ấm nước gừng. Ánh lửa đỏ hồng hắt lên nửa khuôn mặt Tạ Chỉ, nửa kia lại chìm trong bóng tối.
Hắn thấp giọng:
“Cũng may hôm nay người dầm mưa bị bệnh là ta… chứ nếu là Đại lang, chắc phu nhân sẽ lo đến phát khóc mất.”
Lời nói nghe sao mà là lạ.
Ta chỉ gật đầu:
“Ừ, may mà không phải Đại lang. Giờ này ở Bành Thành chắc cũng đã có tuyết rơi, không biết chàng ấy có mặc thêm áo ấm chưa…”
Vừa nghe vậy, Tạ Chỉ không biết tức gì, đặt mạnh bát nước gừng lên bàn, không thèm uống nữa.
Ta đoán chắc… chắc là do gừng hơi quá cay.
Tạ Chỉ giận dỗi với chén nước gừng, kéo chiếc chăn mỏng trùm kín đầu, rồi giọng uể oải, như trách như than:
“Hôm đó Nhị lang nhà họ Tạ bỏ trốn, kỳ thật… nàng cũng mừng chứ gì?
Dù sao ai ai cũng bảo Nhị lang không ra gì, chẳng bằng được huynh trưởng của hắn.
Giờ chẳng phải vừa khéo sao — nàng có thể lấy huynh hắn rồi.”
Ta ôm bát nước gừng ấm trong tay, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nghiêm túc đáp:
“Không phải như vậy.”
“Ngày trước bà mối đến cầu thân, cũng kể đủ điều về Đại lang: nào là tài giỏi, trầm ổn, có thể lo toan toàn bộ sản nghiệp nhà họ Tạ.
Còn Nhị lang thì… bị nuông chiều đến hư, chẳng làm được việc gì ra hồn.”
“Nhưng sau đó ta xem tập tranh của Nhị lang, lại cảm thấy hắn không hề tệ — nét vẽ đẹp, khu vườn do hắn thiết kế cũng thanh nhã, có tâm.”
“Ta vốn cũng không phải người có chí lớn gì, chỉ nghĩ… nếu có Đại lang gánh vác gia đình, ta và Nhị lang có thể sống một đời yên ổn, tự tại là tốt rồi.”
“Chỉ là ta không ngờ… hắn nghe đâu đó mấy lời đồn đãi, rồi lại trở nên chán ghét ta.”
Tạ Chỉ lập tức chui khỏi áo hồ cừu, ngẩng đầu lên, đôi mắt lấp lánh ánh lửa nhìn ta, đầy sốt ruột:
“Nàng thật sự thấy hắn tốt đến vậy sao?”
“Thật đấy.”
“Nếu như… nếu như Nhị lang trở về, rồi hắn nói hắn còn muốn…”
“Không được.”
Không đợi hắn nói hết câu, ta đã nhẹ nhàng cắt lời. Một chữ “không” đủ khiến ánh mắt trong veo kia chợt tối lại, long lanh ban nãy bỗng hóa mờ đục.
Hắn cắn môi, ngập ngừng hỏi tiếp:
“Nếu… nếu như Đại lang thay lòng đổi dạ thì sao?”
Ta ngẫm một lát, cười nhạt:
“Nếu chàng thay lòng, ta sẽ bán đi cái ‘chân tâm’ trong hộp mà chàng đã đưa, mang tiền về Ngô Quận, chẳng lỗ chút nào.”
Ta không đáp ngay, nhưng trong lòng tự có chủ trương.
Thế nhưng trong ánh mắt của Tạ Chỉ, ý vị lại thêm phần phức tạp. Hắn nhìn ta, như muốn hỏi thêm điều gì đó — lại thôi.
Đúng lúc đó, bên ngoài truyền vào tiếng gọi của nha hoàn, báo rằng thư của Đại lang đã đến.
Trong thư, chàng viết rằng đã báo tin cho cha mẹ vợ, trấn an họ không cần lo lắng.
Đợi chàng trở về Quảng Lăng, nhất định sẽ đích thân đưa ta về Ngô Quận ra mắt song thân.
Ngoài thư, còn kèm theo một hộp đặc sản của Bành Thành.
Ta hớn hở đưa thư cho Tạ Chỉ xem, nhưng hắn lại khẽ cười lạnh, xoay mặt đi, không buồn đón lấy:
“Tạ Chỉ, Quảng Lăng có chuyện gì mới mẻ, có thể kể với Đại lang không?”
Nghe ta hỏi vậy, hắn ngẫm nghĩ giây lát, khoé môi cong lên như ánh trăng đầu xuân:
“Chuyện này à…”
“Vườn hoa đã sửa sang đẹp đẽ, tất nhiên phải báo tin cho Tạ huynh biết một tiếng.”
“Nếu phu nhân chịu viết trong thư rằng — ‘có A Chỉ giúp đỡ’, thì Tạ huynh chỉ cần đọc đến đó… tự nhiên sẽ biết là ta.”
Madara Info
Madara stands as a beacon for those desiring to craft a captivating online comic and manga reading platform on WordPress
For custom work request, please send email to wpstylish(at)gmail(dot)com