Nên Thương Ngày Xuân Đến Muộn - Chương 5
5.
Đêm trừ tịch năm ấy, Quảng Lăng đổ trận tuyết lớn hiếm thấy.
Đã lâu không nhận được thư của Tạ Thanh Trì, ta đoán hẳn là do tuyết rơi dày, thư từ bị chậm trễ dọc đường.
Sân vườn cuối cùng cũng thu dọn được chút dáng vẻ của gia viên.
Trước cửa dán câu đối đỏ, lồng đèn treo cao, ánh hồng lấp lánh giữa tuyết trắng, một mảnh hỷ khí tràn đầy.
Ta e rằng Tạ Chỉ không có nơi nương náu trong những ngày Tết, bèn hỏi hắn có nguyện ý tới Tạ gia đón năm mới hay không:
“Dù sao cũng là người cùng tộc, ta chuẩn bị một ít lễ vật, ngươi chỉ cần nói là tới bái phỏng trưởng bối.”
“Tết đến xuân về, nhà nhà đoàn tụ, lẽ nào lại để ngươi lang bạt đói lòng?”
Nhìn đống lễ vật ta chuẩn bị chu tất, Tạ Chỉ khẽ do dự, thấp giọng hỏi dò:
“Nếu như ta giấu ngươi một chuyện… ngươi có thể đừng giận chăng?”
Lòng ta thoáng sinh nghi, liếc mắt nhìn hắn:
“Chuyện gì vậy? Chẳng lẽ ngươi lừa gạt bạc của ta sao?”
Hắn vội xua tay, có chút chột dạ:
“Không phải… chỉ là… nếu gia thế của ta, kỳ thực không bi thảm như ngươi tưởng…”
Ta đưa tay hà hà vào lòng bàn tay, cười, rồi đem đống lễ vật nhét vào tay hắn:
“Vậy thì đáng mừng thay.”
“Đừng sợ, phụ mẫu của Đại lang, tuy có hơi thiên vị, nhưng là người khoan hậu.”
Tạ phủ giăng đèn kết hoa, rực rỡ như lễ cưới.
Phu phụ Tạ thị đã đứng chờ nơi cổng.
Vừa thấy ta bước xuống xe ngựa, Tạ mẫu liền bước tới, ôn hòa khoác lấy tay ta, miễn đi mọi lời khách sáo.
Ta vốn định giải thích việc Tạ Chỉ đi cùng, bèn xoay người nói:
“Thưa mẫu thân, có một việc con muốn thưa—”
Lời còn chưa dứt, rèm xe ngựa phía sau đã được vén lên, Tạ Chỉ vận nguyệt bạch trường sam bước xuống.
Tỳ nữ bên cạnh Tạ mẫu lập tức tiến lên, mặt mày vui vẻ, cung kính dâng lên lò sưởi tay:
“Hôm nay tuyết lớn, Nhị gia đừng để nhiễm hàn khí.”
—Nhị gia?
Cũng phải, Tạ Chỉ là người chi thứ, tính theo vai vế đích xác là hàng thứ hai.
Có điều, ta lại chẳng hề hay biết, hắn cùng Tạ phủ thân thiết đến nhường này.
Sau khi an vị, ta vẫn chưa hiểu rõ vì sao Tạ Chỉ lại có thể tự nhiên ngồi sát bên cạnh bà mẹ chồng như vậy.
Chẳng ngờ bà lại đích thân rót cho ta và Tạ Chỉ mỗi người một chén rượu nóng, ôn hòa nói:
“Được rồi, các con uống một chén rượu này cho ấm người đã.”
Thấy ta và Tạ Chỉ đều đã uống cạn, bà mẹ chồng liền nắm lấy tay ta và tay hắn, kéo lại đặt lên nhau, nét mặt tràn đầy từ ái:
“Tốt lắm, tốt lắm. Hai đứa chịu uống chén rượu này, ta cũng yên tâm rồi.”
“Đứa nhỏ này trước kia tuy có phần hồ đồ, nhưng tấm lòng dành cho con là thật tâm.”
Ta còn chưa kịp phản ứng thì bà đã cười dịu dàng:
“Con đừng chấp nhặt nó nữa. Về sau có tức giận thì cứ đánh cứ mắng, coi như trút giận cho nhẹ lòng.”
Tạ Chỉ không nói gì, chỉ nghiêng đầu mỉm cười nhìn ta.
Ta ngây người.
Đây… đây là có ý gì?
Bà mẹ chồng cười tủm tỉm, dịu dàng giải thích:
“Đứa con út của ta tên là Thanh Từ, nhũ danh là Chỉ nhi.”
“Con đừng giận nó. Nó cũng không hề lừa con, chẳng qua là con chưa từng hỏi kỹ.”
Tạ Chỉ — không, phải gọi là Tạ Thanh Từ — vội vàng kéo tay áo ta, giọng khẩn thiết:
“A Oanh, nàng muốn đánh muốn mắng thế nào cũng được, chỉ xin đừng giận ta. Nàng đã hứa với ta rồi mà.”
Đầu óc ta vẫn còn rối bời, chưa kịp nghĩ xem có nên nổi trận lôi đình hay không, chỉ nhớ tới Tạ Thanh Trì.
Vị Đại lang ấy… còn gửi một hộp đầy ắp chân tình cho ta kia mà.
Ta vội mở miệng:
“Vậy… còn Đại lang thì sao?”
“Chàng ấy còn để lại cho ta cả một hộp thư tình.”
Bà mẹ chồng thản nhiên cười, không lấy gì làm lạ:
“Đại lang thì không sao, nó với con cũng chỉ gặp một lần mà thôi, chẳng có tình cảm sâu đậm gì đâu.”
“Hôm đó vốn là định để nó thay Thanh Từ bái đường, chỉ vì thấy con khóc quá thương tâm, nên nó mới tự ý thay đổi quyết định thôi.”
“Huống hồ, chúng ta đã viết thư gửi về Bành Thành, đến nay cũng chưa thấy nó phản hồi, nghĩ tất cũng coi như đã ngầm đồng ý.”
“Năm nay e là nó cũng không về ăn Tết, thôi thì khỏi cần đợi nữa.”
Yến tiệc đã khai, chén rượu giao nhau, tiếng cười nói rôm rả tựa như một hồi hôn lễ nữa vừa bắt đầu.
Trước mặt là sơn hào hải vị, nhưng ta chẳng thể nào nuốt nổi một miếng.
Người ta nói rượu Quảng Lăng ngọt, mà sao chén rượu trước mặt ta, vị hậu chỉ đọng lại nỗi đắng cay không dứt.
Thì ra những năm tháng ấy, người chịu khổ… chỉ có một mình Tạ Thanh Trì.
Ta đẩy chén rượu sang bên, toan đứng dậy rời đi, thì Tạ Thanh Từ vội vã đuổi theo.
Hắn hấp tấp kéo lấy tay áo ta, giọng gấp gáp giữ lại:
“A Oanh, nàng giận ta rồi phải không? Là giận ta năm đó để nàng một mình trong kiệu hoa, giận ta cố ý dùng cái tên Tạ Chỉ để lừa gạt nàng?”
“Ban đầu quả thực là ta hồ đồ, ta nghĩ nàng chẳng phải người tốt lành gì. Nhưng những ngày qua chung sống… ta mới biết nàng tốt đến nhường nào.”
Ánh trăng hòa cùng tuyết trắng rọi vào mắt hắn, trong veo và sáng rõ.
Ta tin những gì hắn nói đều là thật, cũng tin hắn đã thật tâm hối lỗi.
Ta nghiêm túc nhìn thẳng vào mắt Tạ Thanh Từ, giọng khẽ khàng nhưng vô cùng điềm tĩnh:
“Tạ Thanh Từ, ta không hề giận chàng, thực lòng không hề.”
“Chàng để ta một mình trong kiệu hoa, ta không giận.”
“Chàng dùng tên Tạ Chỉ để lừa ta, ta cũng không giận.”
“Vừa nãy ở yến tiệc, ta cứ nghĩ mãi vì sao mình không giận, giờ ta đã hiểu rồi…”
“Bởi vì ta vốn dĩ… chẳng hề để tâm đến chàng.”
Sắc mặt Tạ Thanh Từ bỗng chốc tái nhợt, nhưng vẫn cố chấp không chịu buông:
“Chẳng lẽ nàng để tâm đến huynh trưởng sao?”
“A Oanh, nàng và huynh trưởng ta chỉ mới gặp nhau một lần, thư từ cũng chỉ vài bức, sao có thể gọi là xứng đôi?”
“Thế nhưng những ngày gần đây nàng và ta cùng nhau vẽ tranh, bày biện vườn nhà, vui thú hòa hợp, chẳng phải chính là cuộc sống nàng hằng mong mỏi đó ư?”
“Nếu nàng cảm thấy day dứt, đợi khi chúng ta thành thân, ta sẽ nhường cho huynh trưởng một khu vườn lớn hơn, tốt hơn. Rồi ta sẽ chọn cho huynh một mối lương duyên thật xứng đáng. Nàng đâu biết ở Quảng Lăng này có bao nhiêu thiếu nữ mong gả cho huynh ấy.”
Những điều Tạ Thanh Từ nói… quả thật đều có lý.
Ta không hiểu rõ Đại lang. Nhưng ta biết, chàng là người rất rất tốt.
“Phải, ta và chàng chỉ mới gặp nhau một lần, thư tín cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.”
“Nhưng lần đầu gặp mặt, chàng không biết ta xấu hay đẹp, chẳng rõ ta là người thế nào, vậy mà vẫn sẵn lòng đưa tay ra giúp.”
“Ta không rõ chàng thích gì, ghét gì, chẳng hay quá khứ của chàng ra sao, càng không dám chắc ta và chàng có thực sự xứng đôi hay không.”
“Ta chỉ biết một điều, hiện tại chàng đang bị bỏ rơi giữa trời đất, cô độc không nơi nương tựa, giống hệt như ta năm xưa bị bỏ lại trong kiệu hoa lạnh lẽo.”
“Lần trước chàng thay ta đứng ra gánh vác, lần này… đến lượt ta tìm chàng.”
Nói xong, ta không quay đầu lại nhìn sắc mặt ảm đạm dần đi của Tạ Thanh Từ nữa.
Ta buông rèm xe xuống, phân phó xa phu:
“Quành xe, đến bến đò rồi mới về nhà.”
Trời lác đác rơi những hạt tuyết nhỏ, từ xa đã trông thấy thương thuyền nhà họ Tạ neo đậu ở bên bờ.
Tấm rèm thuyền vừa vén lên, một làn gió tuyết cuốn theo hương rượu ngòn ngọt nhưng lạnh thấu tim, phả thẳng vào mặt.
Tạ Thanh Trì không biết ta đã tìm đến bến đò bằng cách nào.
Lúc này gió lạnh thốc qua, dư vị của chén rượu khi nãy cuộn lên nơi ngực, say chếnh choáng, bước lên thuyền cũng lảo đảo xiêu vẹo.
Ta lảo đảo ngã vào lòng chàng, ngẩng đầu, giọng có phần giận dỗi:
“Vì sao đến Quảng Lăng rồi lại không về nhà? Chàng có biết ta vẫn luôn đợi không?”
Bị ta nhào vào lòng bất ngờ, Tạ Thanh Trì thoáng sững sờ, hồi lâu vẫn chưa nói nên lời.
Thật lâu sau, giọng chàng khản đặc, trong mắt đượm đầy khổ sở:
“Ta cứ tưởng nàng giống bọn họ… cũng chẳng mong ta quay về nữa.”
Mượn men rượu chưa tan, ta nâng khuôn mặt chàng, nghiêng đầu chăm chú nhìn kỹ.
Hai tháng rong ruổi ở Bành Thành, chàng đã gầy đi nhiều so với ngày thành thân:
“Chàng gầy quá… có phải có kẻ bắt nạt chàng không?”
Chàng cúi đầu, để mặc ta xoa nắn khuôn mặt:
“Không ai bắt nạt ta cả… chỉ là ta muốn mau chóng trở về, nên đi qua mấy trận tuyết, thức liền mấy đêm, có lúc đói đến mức chẳng còn sức mà nghĩ nữa.”
Nghĩ đến bàn tiệc tất niên linh đình hôm nay, lòng ta lại xót xa:
“Bọn họ không đợi chàng về đã tự động dọn cơm, lại còn nói chàng không tốt.”
“Ta giận, uống một chén liền bỏ đi. Bụng cũng đói lắm.”
“Tạ Thanh Trì… những lời họ nói, đều là sai cả.”
“Ta thì thấy… chàng rất, rất tốt.”
Tạ Thanh Trì chẳng nói gì, chỉ ôm ta thật chặt vào lòng.
Thì ra… khi được ai đó ôm chặt như thế, cổ sẽ thấy lành lạnh.
Có lẽ là bởi… tuyết trong lòng Tạ Thanh Trì, đã bắt đầu tan rồi chăng?
Khi muôn nhà thắp sáng đèn lồng, pháo hoa bừng nở rực rỡ trên đỉnh đầu.
Năm mới, đã đến rồi.
6.
Mùng ba tháng Giêng, nắng xuân rạng rỡ, trời trong vắt không gợn mây.
Liên tiếp mấy ngày đều là thời tiết đẹp, thích hợp để lên đường xa xứ.
Phu phụ nhà họ Tạ vì muốn xoa dịu lòng Nhị lang, đã chọn không ít khuê nữ danh môn cho chàng xem mắt.
Chàng lại không chịu ra khỏi cửa, càng không chịu gặp người, chỉ nhốt mình trong hoa viên, mặc kệ ai khuyên nhủ.
Mãi đến hôm nay, ta và Tạ Thanh Trì mới lên đường trở về Ngô quận.
Thuyền chầm chậm rời bến, xa xa ta thoáng trông thấy một thân ảnh áo nguyệt sắc, nép sau đám đông, không dám lộ diện.
Tạ Thanh Trì làm như vô ý nắm lấy tay ta, nắm chặt không chịu buông:
“A Oanh đang nhìn gì thế?”
Ta khẽ nghiêng đầu, cong môi đáp:
“Nhìn người ngoại quận kia đang cãi nhau với gã bán ngỗng quay. Người nọ thật là kỳ lạ, chẳng lấy nước sốt, lại cứ nằng nặc đòi một đĩa giấm chua gắt để chấm.”
Tạ Thanh Trì nghe vậy liền bật cười:
“Chấm giấm ư? Còn có kiểu ăn như vậy sao?”
Ta phụ họa:
“Chính là thế đó, ai lại đi chấm giấm bao giờ?”
Thấy ánh mắt ta dừng lại nơi chàng, Tạ Thanh Trì mới bừng tỉnh, khẽ ho một tiếng, đoạn nghiêm mặt nói:
“Khi xưa ở Ngô quận, ta từng thấy có người ăn như vậy.”
Ta nhướng mày, giả vờ giận dỗi:
“Chàng nói bậy, người Ngô quận nào lại ăn như thế chứ?”
Chàng cong môi, cười khẽ:
“Nàng nhìn y phục hắn mặc đi, kiểu dáng ấy chỉ có người Ngô quận mới hay dùng. Lại nghe nói, nữ tử Ngô quận đều khéo tay, thường tự mình may áo cho ý trung nhân, từng mũi kim đường chỉ đều hàm chứa tâm ý.”
Thấy ta không mấy để tâm, Tạ Thanh Trì khẽ thở dài, lúng túng quay đầu sang chỗ khác:
“Là giấm. Ta ghen vì nàng may áo cho y rất chăm chút.”
Nhìn tay áo y hẹp hòi, đường khâu xiêu vẹo vụng về, ta chợt đỏ mặt, ấp úng nói:
“Tất, tất nhiên rồi. Ở Ngô quận ta, khắp nơi đều là cô nương khéo tay.”
Ta còn cười híp mắt trêu chàng:
“Chàng đúng là có phúc, cưới được một người… tay chân vụng về nhất đấy!”
Lời này vừa dứt, Tạ Thanh Trì đã hiểu ra: chiếc áo kia vốn chẳng phải do ta may.
Thế nhưng chàng vẫn chưa chịu thôi:
“Còn nữa, ta ghen vì nàng lấy hồ cừu cho y giữ ấm.”
Ta bật cười, hất mái tóc bị gió thổi tung, thản nhiên đáp:
“Thế có gì lạ? Ta còn dùng hồ cừu bọc mèo rơi xuống nước, chó con bị lạnh nữa là.”
Chàng lặng im một lát, rồi nhỏ giọng:
“Nhưng điều khiến ta để tâm nhất… là nàng gọi y là A Chỉ, còn ta chỉ là Thanh Trì.”
Ta liền nhón chân, ghé sát vào tai chàng, mỉm cười khẽ hỏi:
“Vậy ta nên gọi chàng là gì? Đại lang? A Trì?
Hay… là phu quân?”
Trên thuyền gió lớn, tiếng tình tứ nghe như ảo vọng.
Tạ Thanh Trì sững người, vội nắm lấy cổ tay ta:
“A Oanh, nàng nói lại một lần nữa.”
Thế nhưng ta vừa mới nói biết bao lời, Tạ Thanh Trì, chàng muốn nghe câu nào đây?
Là câu rằng ta muốn học cắt may cùng nương, may cho chàng một bộ hỷ phục vừa vặn như in.
Hay là câu ta sẽ nhờ cha chỉ dạy, rằng hai lượng bạc riêng cũng là của để dành đáng quý.
Hay là câu duyên phận này thật đúng lúc, vừa vặn, đời này ta nguyện cùng chàng bạc đầu tương phó?
-Hoàn-
Madara Info
Madara stands as a beacon for those desiring to craft a captivating online comic and manga reading platform on WordPress
For custom work request, please send email to wpstylish(at)gmail(dot)com